Cô Út Nguyệt Quế sanh tại huyện Giồng Trôm, Tỉnh Bến
Tre trong một ngày mưa to gió lớn. Mẹ cô đã lớn tuổi mà lại có thêm đứa út ít
là cô, nên sanh rất khó, muốn làm băng huyết. Cô sanh thiếu tháng, nhỏ xíu có
thể đặt nằm trên hai bàn tay, khóc oe oe như con mèo hen ốm đói. Không biết cô
ra đời với ngôi sao bổn mạng nào, mà từ ngày cô chào đời, bao nhiêu xui xẻo đã
xảy đến trong gia đình cô. Đàn heo mập ủn ỉn sắp tới ngày đem bán tự nhiên bỏ
ăn, nằm la liệt vì bệnh dịch. Ông Hương - ba cô hoảng hốt đi mua lá cần sa về
trộn vào cám cho heo ăn, mong heo được kích thích mà tỉnh dậy, nhưng vẫn không
có kết quả. Bán tống bán tháo chẳng được bao nhiêu tiền, lứa heo này xem như lỗ
nặng. Ông Hương trong lúc chạy gọi cô mụ đỡ đẻ cho má cô, vì vội vàng nên té sấp
vào hàng rào kẽm gai nhà ông trưởng ấp, vết thương làm độc để lại mấy vết sẹo
trên mặt. Chưa hết, thằng con quý tử của ông - anh ruột của cô - đang khỏe bỗng
bị cảm thương hàn, tưởng mất mạng. Quả là họa vô đơn chí, cũng may cuối cùng
mọi chuyện cũng qua đi. Tuy nhiên, ông Hương vẫn tin Quế là hiện thân của oan
gia, thứ hãm tài, khi không chui ra đời làm xáo trộn đời sống gia đình. Ông bà
Hương có 5 đứa con gái, trắng trẻo xinh đẹp được gọi là Ngũ long công chúa, nổi
tiếng ở Giồng Trôm. Thằng quý tử ra đời sau bao nhiêu năm trông đợi cũng rất
xinh trai, tuy hơi nhỏ con. Tưởng không sanh nữa, nhè đâu lại rớt ra Quế, đen
thủi đen thui, bé loắt choắt như con chuột. Ông Hương ghét Quế, hay mắng chửi
đánh đập, bà Hương dù sao cũng thương con, ra sức bênh vực nhưng vì bận rộn
công việc, Út Quế vẫn hay bị đòn oan, bỏ đói, bị trêu chọc cả ngày.
Thật ra, cô Út không xấu, cô đen nhưng có duyên, hơi
gầy nhưng không khô khan, cặp mắt to đen lúc nào cũng ướt sũng, ngơ ngác nhìn
đời. Ông Hương nhiếc cô:
-Đồ chết cha chết mẹ hay sao mà lúc nào mắt cũng ướt
rượt, nuôi mày tao thà nuôi con heo còn ăn được bộ lòng, cái mặt nhìn lì hết
biết!
Càng ghét cô, cô càng sợ hãi vụng về trước mặt ông,
Quế hay lóng cóng làm rớt đũa, run rẩy không trả lời được các câu hỏi bất ngờ
của ba. Chị cả của cô thương cô, mỗi lần ba về ra hiệu cho cô đi trốn, tránh
gặp mặt ông Hương để khỏi bị mắng, bị đánh. Nhưng thằng anh và mấy con chị kia
thì không hiểu, cứ chọc phá cô cho cô bị chửi làm trò cười. Nếu chúng có lỡ làm
bể chén, ăn vụng, chúng đổ thừa cho cô để khỏi bị phạt. Tuy vậy, cô vẫn lớn
lên, được đi học trường tiểu học, vươn lên như một cành cây dại để sống còn.
Hôm đó Tết, cô cũng thừa hưởng được bộ quần áo tương
đối mới của người chị kế, được cho tiền lì xì, được chơi chung với các anh chị
và các bạn trong xóm trò sổ lô tô. Mỗi đứa được phát cho mấy tờ giấy có in số,
xong rồi 'cái' sẽ bốc và đọc các số trúng, ai 'kinh' trước thì được tiền. Đến
khi cô làm cái, Út cũng cẩn thận đọc các số, thằng anh của cô đang hồi hộp chờ
con số cuối cùng để thắng, bỗng nổi nóng nhào lên tát cô mấy bạt tay. Cô dại
khờ khi bốc con cờ ra đọc số xong, thay vì bỏ số ra ngoài, cô bỏ lại vào bao
bốc lại lần nữa. Quế bỏ chạy ra vườn, ngồi núp sau lu nước mà nước mắt tuôn
trào. Tết mà bị xui như vầy, khỏi nói cô sẽ tiếp tục xui xẻo trong nguyên năm.
Cô Út giật mình vì có tiếng nói sau lưng:
-Thằng Tánh kỳ quá, có vậy thôi mà cũng đánh em, trò
có đau lắm không?Thì ra thằng Sinh, anh con Thùy, học cùng trường với Quế bỏ chơi lô tô chạy ra hỏi thăm cô.
Út mếu máo:
-Tui mới chơi lần đầu, không biết luật!
Sinh cười thông cảm:
-Đừng thèm chơi với tụi nó, trò biết chơi rảy hột me
không, chơi với tui.
Sinh móc trong túi quần ra một mớ hột me, cùng chơi
với Quế say mê. Một chút sau con Thùy cũng tới nhập cuộc, Quế quên nỗi buồn,
cười rất tươi, cặp mắt sáng rỡ.
Từ đó mỗi lớp học giờ ra chơi hay các buổi chiều về,
Sinh hay tới chơi với Quế, chỉ dẫn cho cô nhiều thứ ở trường, bày các trò chơi,
kể chuyện, dắt cô đi hái khế chua, hái bình bát, lượm trái trâm mọc ở bờ mương,
trên rẫy. Hơn cô có vài lớp, nhưng Sinh khôn ngoan chững chạc hẳn. Hết tiểu
học, Út phải ở nhà phụ việc nhà, cơm nước, tắm heo, làm rẫy. Cô rất buồn vì
không được đi tới trường nữa. Chiều chiều, cô vẫn mong Sinh thỉnh thoảng ghé
qua nói chuyện, giúp cô tưới cây, lên liếp trồng rau, lùa gà về chuồng.
Một buổi chiều, khi đếm lại thấy mất một con gà mái
tơ, Quế hốt hoảng chạy vào nhà kiếm ba:
-Ba, con gà mái lông vàng đâu mất rồi.
Ông Hương đang chuẩn bị phê một điếu thuốc phiện, quát
cô:
-Mày đi kiếm chưa, cả ngày làm gì mà để mất gà!
Út ấp úng:
-Con từ chiều tới giờ mắc làm cỏ cho rau, để con kêu
anh Tánh đi kiếm phụ.
Ông Hương bỗng nổi nóng, thằng con cưng của ông đang
làm toán, nhăn nhó làm không ra, giờ đâu mà đi bắt gà. Con Út này chỉ ham chơi,
chẳng bao giờ làm được tích sự gì. Hồi chiều ông lại bị thua số đề, bực bội
không biết trút vào đâu. Ông rút giây nịt quần, quất vào cô túi bụi:
-Mày mà không kiếm được con gà về đây, thì đừng về nhà
nữa.
Quế chạy như bay ra sân, nước mắt rớt lả tả xuống nền
đất đen nứt nẻ. Người cô đau rát, sợi dây roi để lại từng lằn đỏ ửng trên chiếc
lưng gầy guộc. Cô ngồi thụp xuống đất, ôm đầu, cầu trời khấn Phật cho cô kiếm
được con gà mái lông vàng.
Cô giật bắn mình vì tiếng Sinh sau lưng:-Ba trò đánh trò nữa hả, đưa đây coi.
Quế thút thít vạch lưng áo lên, Sinh đưa tay vuốt những lằn roi sưng phồng:
-Tui lấy nước miếng xức lên cho trò, chắc là sẽ bớt đau.
Không biết nước miếng có là thuốc trị đau hay không, nhưng Quế thấy bớt rát hẳn. Cô xuống giọng:
-Trò phụ tui đi kiếm con gà được không?
Hai đứa nhỏ dắt nhau đi, trời đã chập choạng tối, bỗng Sinh bỏ Quế chạy nhanh ra phía khác. Quế lo lắng:
-Trò đi đâu vậy?
Chút sau, Sinh trở lại với 2 bàn tay chụm lại như chứa vật gì, cười toe toét. Trời ơi, con gà mái mập mạp, làm sao nằm gọn trong bàn tay Sinh được! Quế sợ hãi:
-Cái gì trong tay trò vậy, tui phải đi kiếm gà.
Sinh bí mật mở he hé bàn tay cho Quế xem, nó là 2 con đom đóm rất nhỏ, đang yếu ớt tỏa ra ánh sáng lung linh. Sinh cười:
-Có bao giờ trò thấy cây lửa chưa?
-Cây lửa là cây gì?
-Là cành cây khô, đom đóm đậu đầy chung quanh, sáng như nguyên cây làm bằng lửa, đẹp lắm. Hôm nào gặp, tui kêu trò ra coi. Để tui kiếm cái lon bỏ 2 con đóm này vào cho trò chơi.Con này là tui, con nhỏ này là trò đó! Trò thấy ma trơi chưa, từng vùng ánh sáng lơ lửng trong nghĩa địa, tui nghĩ là đom đóm đang bay từng đàn, ở xa thấy như vậy, chứ ma gì mà ma!
Cô Út tròn xoe mắt lạ lùng.
Nghe Sinh nói, cô biết rất nhiều thứ. Chơi với Sinh, cô thấy rất vui. Được Sinh
giúp đỡ, cô thấy rất an tâm. Cuối cùng cô cũng may mắn tìm được con gà đem về
cho ba. Tuy mới mười tuổi, nhưng mơ hồ cô cũng cảm nhận được sự bất công của ba
dành cho cô. Cô cũng biết thắc mắc tại sao các anh chị lớn hơn mà đều được đi
học, còn cô thì phải ở nhà làm việc vất vả như một người lớn. Câu hỏi này cô
cũng đã hỏi Sinh, nhưng Sinh không trả lời được.
Thấm thoát mà cô Út đã lớn,
bắt đầu trổ mã. Cô đã bớt đen, mầu da nâu hồng sáng sủa. Người cô bắt đầu đầy
đặn, tóc đen mun dù không xức dầu dừa, tay chân tròn trịa nở nang, vòng eo nhỏ
nhắn. Cặp mắt phảng phất nỗi buồn nhưng vành môi tươi thắm, hàm răng chắc chắn
trắng phau. Cô có tay nuôi heo, nuôi gà, trồng rau. Heo lứa nào cô chăm sóc thì
mập tù lu, ủn ỉn với bộ lông sạch sẽ trắng hồng. Cô thương heo, cho nó ăn kỹ
lưỡng, tắm rửa mỗi ngày, thỉnh thoảng trò chuyện với chúng như với bạn. Sinh và
Thùy đã học Trung học cấp ba, ít khi rảnh rỗi trò chuyện với cô, nhiều lúc cô
buồn không biết chia sẻ với ai, cô nói chuyện với mấy con heo cho đỡ buồn. Ông
Hương bắt đầu già yếu, run rẩy, thuốc phiện ngày một khan hiếm, mắc mỏ, hút
không đủ đô làm ông gầy rộc, khô héo hẳn đi, không trồng cấy gì nổi nữa. Tuy bà
Hương và Quế giỏi quán xuyến nhưng nhà đông người, 5 chị một anh đi học, cuộc
sống gia đình cũng hết sức vất vả. Hôm ấy có người tới mai mối cô Út cho một
anh cảnh sát trong vùng. Anh này vạm vỡ, nóng nảy có tiếng, nhưng gia đình cũng
tiếng tăm, thuộc loại có tiền. Ông Hương nói với cô:
-Tao sẽ gả chồng cho mày, chỗ
này được lắm, thằng Đô làm ty cảnh sát, mày sẽ ấm cái thân.Út không thích Đô, nó ăn nói hàm hồ, gặp cô cứ nhìn chòng chọc như muốn ăn tươi nuốt sống. Cô nhỏ nhẹ:
-Con chưa muốn lấy chồng. Con mới 17 tuổi.
-Đừng có bày đặt, má mày 16 tuổi đã lấy tao rồi. Chu choa, đứa con gái nào mà chẳng em chả, em chả!! Tao đã gả ba con chị của mày đâu ra đó rồi, con Quý và con Quyên chưa có ai hỏi, nếu có tao cũng cho đi luôn cho rồi, chứa con gái trong nhà như chứa hủ mắm, không biết bể lúc nào.
Quế cương quyết:
-Con không lấy chồng, con không lấy thằng Đô.
-Vậy chứ mày lấy ai? Mày nghĩ mày đắt giá lắm hả. Người ta dẫn cưới 2 lượng vàng, mấy xấp nhiễu, mấy cặp gà, mấy chai rượu. Tao cần 2 lượng vàng làm vốn buôn bán, lóng rày bịnh rề rề làm rẫy không nổi. Tao đã trả lời rồi, tháng sau người ta sẽ tới làm đám hỏi.
Quế ưá nước mắt, người ta mua cô với giá khá cao so với tình trạng gia đình cô. Tánh lì, bướng bỉnh bỗng tới, cô mím môi:
-Ba chịu thì ba lấy nó đi, con không chịu.
-Tại sao mày không chịu, hay mày đã bồ bịch với thằng nào?
Út buột miệng nói trước khi kịp suy nghĩ:
-Con không bồ bịch gì cả, nhưng con sẽ lấy anh Sinh. Anh nói chờ học xong ra thầy giáo sẽ cưới con.
-à ra vậy, đó giờ mày hò hẹn với thằng Sinh con bà Hai mà tao không biết. Đồ mất nết!
Ông lên cơn điên muốn đánh cô, nhưng bây giờ Quế đã lớn, đã lanh lẹ khôn ngoan, không đứng yên chịu đòn nữa. Cô bỏ chạy. Ông Hương sức yếu đành phải chịu thua.
Quế chạy đến nhà Sinh, cách đó chỉ vài căn nhưng cô thở hổn hển. Đây là lần đầu tiên cô đến tìm Sinh, nhưng anh không có ở nhà. Quế ra sau vườn, trông lên nền trời bắt đầu mọc đầy sao. Xa xa, con lạch nước chảy róc rách, từng bụi dừa nước sai oằn những trái, xoãi dài trên nước, những con cá thòi lòi lết qua lại trên bờ, đưa mắt nhìn Quế như dò hỏi. Hôm nay nước ròng, cô bỗng nhận ra cô yêu vùng đất quê này quá. Từng gốc cây, từng chiếc cầu khỉ chênh vênh, từng liếp rau xanh tốt, những tiếng ểnh ương, tiếng dế reo trong chiều .... tất cả đã thân thuộc, gần gũi với cô như hơi thở. Quế bỗng nhớ những ngày thơ ấu u buồn của mình, dù sao, nhờ có Sinh, khoảng đời tối tăm đó cũng đã lấp lánh chút ánh sáng con đom đóm, cũng như lung linh tia sáng của những vì sao.
Họ lớn lên trong mảnh đất
nghèo nhưng nồng thắm, tình cảm mộc mạc nhưng thiết tha, tâm tình đơn sơ nhưng
bền vững. Sinh yêu Quế thật lòng, yêu lúc nào không rõ. Quế không học cao,
không hiểu rộng nhưng rất biết điều. Cô trọng lễ nghĩa, biết hy sinh, giỏi chịu
đựng, có tinh thần trách nhiệm. Cô chịu thương chịu khó, với lòng nhân từ không
biết oán hờn. Tất cả cái đẹp trong tâm hồn cô tỏa ra trên khuôn mặt phúc hậu,
đôi mắt to đen, bờ môi hồng thắm, mái tóc mềm mại, thân hình cân đối.
Có lần Sinh đã vuốt tóc Quế,
rất thiết tha:-Học xong anh sẽ xin cưới em. Anh thương em lắm, em nhìn lên trời kìa, sao hôm còn có khi quên mọc, nhưng chẳng bao giờ anh sẽ quên em.
Có thể Sinh không bao giờ quên
Quế, nhưng anh sẽ không bao giờ trở lại Giồng Trôm nữa. Khi hay tin Sinh, Thùy
và gia đình vượt biên sang Mỹ, Quế lặng người chết điếng. Cô nhớ anh đến phát
bịnh, lòng buồn phiền không sao khuây khỏa. Với cô, Sinh là tất cả. Anh là hình
ảnh của một người anh, người bạn, người thầy, người yêu. Sinh đã kiên nhẫn giải
thích cho cô nghe biết bao chuyện lạ của đất trời, bao gương tốt trên đời. Cô
hiểu thế nào là sự đoan chính, lòng nhân nghĩa, tình chung thủy không trọng phú
khinh bần. Sự ngọt ngào đùm bọc của anh làm cô phát ngộp. Cô ngộp trong sự che
chở, yêu thương, sự thật thà chân chất của anh:
-Thấy em cực khổ, bị đánh đập,
anh đau đớn gấp trăm lần. Cố gắng đi, anh sẽ bảo bọc cho em suốt đời.
Sinh ra đi, mối tình quê đầy
mật ngọt như dẫy chết. Đàn đom đóm biến mất không xuất hiện, bầu trời đen vắng
bóng những vì sao đêm.
Vài năm sau, Nguyệt Quế bằng
lòng nghe lời ba má lấy chồng. Không làm vợ được Sinh, lấy ai cũng không là vấn
đề với Quế. Hơn nữa, lần này bà Hương bệnh nặng, nhà trai đem sính lễ rất hậu
hỉ: 5 lượng vàng ròng, một chiếc kiềng bạc, đôi bông tai cẩm thạch, đôi vòng lá
lan, bao nhiêu là gà, là vịt, là rượu. Ngày cưới, Út mặc áo gấm vàng, đeo
kiềng, đeo bông tai, đội nón vành rây, đẹp não nùng như đóa hải đường, dù ánh
mắt hiu hắt buồn, dù dáng gầy như lau sậy, dù vai thon trĩu nặng những nhớ
thương ưu phiền. Út theo chồng về Vĩnh Long, giã từ ba má, các anh chị, giã từ
Giồng Trôm với biết bao kỷ niệm. Đêm tân hôn khủng khiếp hơn cô tưởng tượng.
Chồng cô uống say, dày vò cô tàn bạo. Cành hoa bưởi ngoài sân run lên trong
gió, cánh mềm rơi rụng lả tả, phủ trắng một màu khiết bạch trên thềm đất ướt.
Chồng cô là một thương gia, lúc trước hay theo ghe qua Miên buôn đường thốt
nốt, buôn vải sa-teng, buôn cả đá quý. Gần đây, ông ở nhà mở quán nhậu, không muốn
đi xa buôn bán nữa. Quán nhậu làm ăn nên, vì Út khéo léo, làm các món ăn độc
đáo nổi tiếng. Khách nhậu rất đông, chồng cô uống với khách riết đâm ra nát
rượu, lè nhè ghen bóng ghen gió. Quế vẫn vất vả như xưa, vừa lo cho hai con,
vừa làm đồ nhậu cho khách, vừa phục dịch chồng. Cô cố gắng vui với con, vui với
kỷ niệm cũ, đêm đêm vẫn trông lên trời tìm những ngôi sao ngày xưa mọc ở Giồng
Trôm, cố quên đi những ưu phiền vất vả. Anh Sinh cô dặn phải sống vui, sống
kiên trì dù trong hoàn cảnh nào. Cô sẽ nhớ mãi để thực thi suốt đời.
Ngoài sân, đom đóm từng đàn
vẫn bay, ánh sáng chói ngời. Trên trời, muôn ngàn vì sao vẫn lấp lánh, tinh tú
mãi tỏa hào quang .....
Trịnh Tây Ninh
No comments:
Post a Comment