Trà
Nguyễn Ngọc Duy Hân
Trà là thức uống rất gần gũi, cần thiết cho mọi người, mọi nơi. Uống
trà không chỉ là cách giúp mình khỏi khát, mà còn là thú vui tao nhã với nhiều
chi tiết đặc biệt. “Khách đến nhà không trà thì rượu”, đây là câu nói rất thường
được nhắc tới. Cách đây không lâu, tôi đã có tìm hiểu và tản mạn về cà-phê và
rượu, hôm nay mời quý bạn cùng tôi thoải mái uống với nhau tách trà nhé.
Ở miền Bắc Việt Nam trà còn được gọi là chè, nhưng chữ này có thể
lẫn lộn với loại chè đậu đỏ bánh lọt, nên tôi xin dùng chữ trà trong bài viết
này.
Lịch sử về trà đã tồn tại mấy nghìn năm, uống trà đã trở thành văn
hóa của nhiều quốc gia. So với rượu hay cà phê, trà có vẻ nhẹ nhàng, thanh khiết,
ít chất kích thích hơn, và nói chung giá thành rẻ hơn. Theo định nghĩa thông
thường, trà là đồ uống khi ngâm lá, chồi hay cành của cây chè, tên khoa học là
Camellia Sinensis vào nước nóng. Lá trà có thể được ủ để lên men, tức là làm
oxy hóa, hoặc sấy, phơi, rồi tẩm thêm các loài thảo mộc thơm tho khác như hoa,
gia vị, thậm chí trái cây trước khi chế vào nước sôi.
Người ta chia thức uống chế từ Camellia Sinensis thành bốn loại
trà chính: Trà đen, trà Ô Long, trà xanh và trà trắng. Nhưng có nơi chỉ phân
làm ba loại: Trà xanh, trà đen và loại trung gian, khác nhau ở chặng lên men,
cách ủ. Ủ sơ sơ thì thành loại trà xanh, ủ kỹ thì là loại trà đen, ủ vừa vừa
thì cho loại trà trung gian. Nước trà là nguồn caffein, theophylline và chất chống
oxy hóa (antioxidant) tự nhiên, không có dầu mỡ, carbohydrate, hay protein,
giúp nhiều điều tốt cho sức khoẻ. Nước trà có mùi thơm, vị hơi đắng chát nhưng
cuối cùng là vị ngọt đặc biệt quyến rũ rất dễ uống, gọi là có hậu.
Ngày xưa ông bà ta pha trà bằng nước sôi rất nóng rồi rót ra chén
uống. Trà pha kiểu "direct" này nước thường có sắc đỏ với vị đắng
chát, ngày nay người ta cẩn thận có chén tống, chén chuyên, cách pha trà rắc rối
nhiều, nên hương vị ngon hơn, tinh khiết hơn.
Theo một số sách vở, nguồn gốc của trà là từ nước Đại lý bên Trung
Hoa. Họ có câu chuyện huyền thoại để chứng minh, đó là một hôm Thần Nông đi lên
núi, thấy khát thì tình cờ có chiếc lá rơi xuống chân, ông nhặt lên vò nát nếm
và thấy hết khát. Vậy Thần Nông là người đầu tiên đã biết uống trà.
Cũng có chuyện kể Đức Bồ Đề Đạt Ma sau 3 năm tọa thiền, mệt quá kiệt
sức ngủ lịm đi. Ngài tỉnh dậy hối hận quá nên cắt hai mi mắt của mình liệng xuống
đất, nơi đó liền mọc lên một loại cây, ngài lấy lá đó sắc uống thì trở nên tỉnh
táo có thể tọa thiền tiếp cho hết 9 năm.
Người ta xếp hạng loại trà đắt nhất thế giới là trà Da-Hong Pao -
Đại Hồng Bào - với giá hơn 1,2 triệu đô Mỹ một ký. Trà này được trồng trên dãy
núi Vũ Di nằm ở tây bắc của tỉnh Phúc Kiến. Những cây trà Đại Hồng Bào già hơn
350 năm mọc cheo leo trên những vách đá cao ngàn thước là nguyên liệu để chế biến
nên thứ trà đắt đỏ này. Trên thế giới hiện nay chỉ còn khoảng 6 cây Đại Hồng
Trà, được đưa vào danh sách “di sản thế giới”. Chính phủ Trung Cộng đã có lệnh
cấm, chỉ cho phép thu hoạch khoảng 1 kg búp trà hàng năm, vì thế nó rất mắc, uống
vào chắc cũng có cảm giác đang lơ lửng trên triền núi và khi trả tiền thì bị
rơi cái bụp xuống đất!
Kế đến là trà đen Darjeeling của Ấn Độ với đặc tính thơm ngon, nhất
là chữa được bệnh về tim mạch, thần kinh. Trà Darjeeling được trồng trên dãy
Himalayas có độ cao hiểm trở và khí hậu vô cùng khắc nghiệt. Cũng tại vùng đất Ấn
Độ có loại trà quý khác là Maijan Orthodox Golden. Tiếp theo là trà Silver Tips
Imperial tức là trà Ô Long. Trà này được thu hoạch vào ban đêm khi trăng tròn
sau mùa Xuân, cũng là lúc thủy triều dâng cao nhất. Nói chung hương vị của các
loại trà mắc tiền này rất đậm đà, kích thích tế bào, mang đến nguồn khoái cảm
và năng lượng riêng biệt mà các loại trà khác không thể có.
Nghe nói ngày xưa có loại trà dành riêng cho vua chúa xứ Việt.
Sách “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi có ghi loại trà hảo hạng này được sản xuất ở
vùng Châu Sa Bôi, tức Quảng Trị ngày nay. Những thiếu nữ đồng trinh phải để
móng tay thật dài bấm từng đọt non của búp trà, da thịt không được chạm vào
trà, dù là da thịt trinh nữ.
Bên Tàu thì còn kỳ dị hơn, những thiếu nữ đồng trinh xinh đẹp sẽ
hái trà. Trà sau khi sấy khô lại được bọc trong những túi lụa mỏng rồi đặt vào
chỗ kín của thiếu nữ đồng trinh một đêm để tẩm hương trinh. Bạn có dám uống thứ
trà lạ này không? Với riêng tôi thì đây là cách "thừa giấy vẽ voi",
các món ăn "độc lạ" của Tàu tôi không mấy gì hào hứng.
Tương truyền vua Càn Long có tuổi thọ cao đến 88 tuổi thời đó là
nhờ vào uống trà. Ông từng đối lại một câu thơ ý nói chính vua không thể trải
qua một ngày mà thiếu trà, đủ để thấy trà quan trọng trong cung đình như thế
nào.
Tích xưa cũng có kể vua Tần Thủy Hoàng từng gặp phải đối thủ tài
giỏi có tên là Sát Cáp Nhĩ. Viên tướng này có con thần mã rất khoẻ, muốn thắng
trận trước tiên Tần Thủy Hòang phải diệt được con ngựa quý này. Vua nghĩ ra mưu
cho một cô ái phi xinh đẹp của ông cải trang làm cô gái bán cỏ ngựa, lân la quyến
rũ Sát Cáp Nhĩ. Viên tướng này quả nhiên say mê sắc đẹp của nàng ái phi. Cô này
bày ra chuyện cho ngựa ăn lá trà để mổ bụng lấy được loại trà tuyệt hảo ra mà uống.
Sát Cáp Nhĩ trúng kế, giết chết con ngựa của mình để lấy trà quý và kết cuộc là
đã bại trận. Bạn nghĩ sao, vị tướng này chết vì người đẹp hay chết vì trà ngon?
Tây Bắc được coi như cái nôi trồng những giống trà ngon ở Việt
Nam, kế tới là Thái Nguyên với khí hậu mát mẻ quanh năm. “Chè Thái, gái Tuyên”,
là câu nói để ca tụng loại trà trồng ở Thái Nguyên, còn con gái đẹp, dịu dàng
thì phải kể đến con gái ở đất Tuyên Quang. Bảo Lộc, Hà Nội cũng là địa danh nổi
tiếng trong việc sản xuất trà của Việt Nam.
Riêng về cách chế biến trà thì phải qua nhiều bước khác nhau, đầu
tiên là hái lá, xong rồi làm lá trà đó khô héo, tiếp tới là làm dập. Lá trà được
làm dập bằng cách vò trong rổ hay dùng vật nặng chà lăn, áp dụng cho một số loại
trà đen, loại trà trắng không phải qua công đoạn này. Tiếp theo là làm oxy-hóa,
tức là làm trà lên men, sau đó trà được làm ẩm trở lại bằng nước ấm trong một
phòng kín, từ đó trà xanh chuyển màu vàng. Rồi phải tạo dáng hay định hình cho
lá trà như cuộn xoắn là hay viên tròn, sau đó lại sàng sẩy, phơi nắng hong gió,
tẩm ướp thêm hương liệu, mùi hoa...
Mỗi loại trà sẽ có cách pha riêng để đạt được hương vị ngon nhất của
loại trà đó. Chẳng hạn trà Nhật Gyokuro thì chỉ pha ở nhiệt độ khoảng 50 tới 60
độ C, ngâm khoảng 3 phút thôi, còn trà Genmaicha thì cần pha ở nhiệt độ nước
sôi 100 độ. Thì cũng như tùy tính tình, hoàn cảnh của người thân mà mình có
cách ăn nói, cư xử khác nhau. Nhằm đứa con hay bà vợ có tính nhậy cảm, hay hờn
mà mình cứ mắng xối xả thì sẽ có chuyện lớn.
Uống trà, cái thú không chỉ là lúc nâng tách lên uống mà cả khi đợi
chờ cho trà thấm. Cũng giống như khi ăn Tết, lúc chuẩn bị lau lư hương, làm
bánh làm mứt là lúc rộn ràng, nôn nóng vui hơn hết. Khi cô dâu chú rể chuẩn bị
quần áo, bông hoa cho đám cuới thì cũng hết sức "hồ hởi phấn khởi",
khi cuới về thì mới sáng mắt ra! Uống trà thường phải đi đôi với việc ngắm
trăng, ngắm hoa như xem hoa quỳnh lúc sắp nở, rồi bàn chuyện thế sự, văn
chương. Phải là người thanh tao, tri kỷ hợp tính hợp tình thì uống trà chung mới
thú, nếu không thì cũng như "đàn khảy tai trâu".
Nói đến trà ướp hương là phải nhắc đến 3 loại rất đặc sắc: trà
sen, trà ngũ hương và trà hoa sứ.
“Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà mạn hảo, xem nôm Thuý Kiều”
Trà mạn là trà không ướp hương, chú trọng đến sự tinh tế trong vị
"origin" của trà. Người tây phương uống trà hay pha thêm sữa tươi, mật
ong, đường... Khi uống trà, người ta thường ăn kèm với miếng bánh ngọt, kẹo đâụ
phọng, thỏi sô-cô-la, không dùng trà với bò beefsteak! Nhưng đúng hơn thì có lẽ
phải nói ngược lại, nếu ăn bánh kẹo, thì sau đó phải có tách trà nóng để
"chiêu" đi cái ngọt của kẹo bánh. Đó là chưa kể tới các loại trà sữa,
trà trân châu (bubble tea) và nhiều loại kem, bánh có bỏ hương vị trà trong đó.
Người ta còn dùng nước trà đậm để rửa cá khử mùi tanh. Trà đá chanh đường là
món uống rất thông dụng ở Việt Nam, khi khí hậu rất nóng.
Uống trà ngon thì đầu tiên cần có lá chè ngon, với nước tinh tuyền
và nhiệt độ thích hợp, xong rồi ly tách phải đẹp, người cùng đối ẩm cũng phải
là khách quý, bạn tâm giao, nhưng trong cuộc sống, rất khó để có sự hoản hảo.
Thôi thì "có hoa mừng hoa, có nụ mừng nụ", được mức tương đối là mừng
rồi, nếu cầu kỳ rắc rối sanh phiền để được sự hoàn mỹ thì cũng đâu có đáng!
Uống trà có một số điểm lợi về sức khỏe, thí dụ phòng ngừa các bệnh
tim mạch, giảm huyết áp, hạ mỡ máu, chống oxy hóa, làm chậm quá trình lão hóa,
phòng ngừa ung thư, chống dị ứng - Những người quá mẫn cảm với hải sản và phấn
hoa nếu thường xuyên uống trà sẽ giảm bớt. Ngoài ra trà giúp chống sâu răng nhờ
hợp chất polyphenol có trong trà, vì thế nhiều loại kem đánh răng có chứa
polyphenol trong đó. Chè xanh lại chứa những chất kích thích bổ sung
cholesterol tốt, loại đi cholesterol xấu. Chè xanh còn có tác dụng làm giảm lượng
chất béo trong cơ thể, giảm nguy cơ bệnh béo phì, tăng cường trí nhớ, giúp trí
óc nhạy bén hơn, nghe có lý quá phải không các bạn? Không những thế, chè xanh
còn làm giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer và Parkinson. Cái vụ Parkinson này thì
cá nhân tôi hơi nghi ngờ vì bố tôi uống trà xanh nhiều mà vẫn tay vẫn run run
khi hãm nước vào phích, ấy mà biết đâu nếu không nhờ trà xanh ông còn run nhiều
hơn thế nữa! Theo kết quả nghiên cứu được phát hành trên báo tây phương, chè
xanh để tự nhiên uống tốt hơn trà đã qua chế biến. Uống trà nóng tốt hơn trà lạnh,
nhưng không nên uống khi đói, nếu bị viêm loét dạ dày, bệnh mất ngủ, táo bón,
đang bị sốt cao thì phải tránh. Phụ nữ có thai nên thận trọng khi dùng.
Trà có chất caffeine, nồng độ tùy thuộc vào từng loại trà và liều
lượng sử dụng. Nếu uống trà xanh với mục đích giảm cân, bạn có thể uống trà ô
long – có hàm lượng caffeine thấp hơn. Cũng không nên uống trà vào sáng sớm khi
đói làm bụng cồn cào, khó chịu, nghiên cứu cũng cho biết nên tránh uống trà
trong bữa ăn vì trà xanh có thể làm giảm khả năng hấp thụ vitamin B1, có thể dẫn
tới bệnh tê phù. Lại cũng không nên uống trà quá đặc nhất là trước khi đi ngủ.
Trà "Thái Đức" uống vào sẽ "thức đái" cả đêm đấy.
Ấm, tách, khay dùng để uống trà cũng là một nghệ thuật. Miệng, vòi
và quai ấm phải ngang nhau, nắp ấm phải vừa khít để giữ nhiệt. Các ly tách thì
đủ kiểu, đủ cỡ lớn nhỏ, nhưng thường có một chén tống và bốn chén quân; chén tống
để rửa trà cho sạch rồi mới rót ra các chén nhỏ. Gốm Bát Tràng nổi tiếng ở Việt
Nam, rất tinh xảo khi chế biến ra thành ly tách, chén đĩa.
Người ta cũng có các bộ tách uống trà riêng cho từng mùa, gọi là
xuân ẩm, hạ ẩm, thu ẩm và đông ẩm. Tôi thì không biết về trà đạo, thỉnh thoảng
cũng uống trà vì nước lạnh có vẻ lạt lẽo quá. Lý do chính mà tôi uống trà hay
cà-phê là để cho tỉnh ngủ, nên cả nhà chỉ có một bộ tách trà đãi khách. Được tặng
vài bộ ly chén mùa Noel, năm nào siêng thì đem ra xài, hết Noel thì cất đi, chứ
thay đổi ly tách theo 4 mùa thì mệt quá. Một vài người bạn cười tôi là
"nhà thơ" mà sao có vẻ trần tục thế, tôi đành cười trừ, vì trước hết
tôi có là "nhà thơ" đâu, hơn nữa cuộc sống thực tế phũ phàng, bận rộn
làm sao mà theo nghi thức, nghệ thuật cho nổi! Trà đạo nói nôm na là vừa uống
trà vừa đàm đạo, được xem là một nghệ thuật mang nhiều tính nhân văn, thanh cao.
Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12 mà người Nhật Bản rất xem trọng.
Theo tôi để ý, người già thường hay khề khà trước tách trà hơn người trẻ, có lẽ
vì uống trà cần phải có nhiều thời gian, nhất là vừa uống vừa ôn lại kỷ niệm,
kinh nghiệm đời sống. Thưởng thức trà có 3 cách: độc ẩm (uống một mình), đối ẩm
(hai người), và quần ẩm (nhiều người), riêng tôi rất thích mời bạn bè tới nhà
chơi, sau khi ăn xong pha ấm trà ngon, ngồi bàn chuyện thế thái nhân tình, quốc
gia đại sự, từ đó thấy gần gũi và học hỏi được nhiều điều hay.
Phong cách uống trà của người Việt thường mộc mạc, gần gũi, chứa đựng
nhiều tình nghĩa, không gó bó như cách uống trà của người Tàu, người Nhật. Bất
cứ nơi đâu, giàu nghèo ta cũng có thể thấy hình ảnh ấm trà, ly trà. Chắc bạn
khá quen thuộc với hình ảnh các em bé khi xưa hay phải đi rao bán trà đá trên
các chuyến xe, ghe đò, hoặc khi trời lạnh thì bán trà nóng, bán nước vối. Bạn từng
uống qua nưới vối chưa, hình như nước vối ngày nay đã bị thất truyền. Tôi vẫn
thèm hương vị là chè tươi ngày xưa từng được uống ở quê nhà, nó thơm, hơi chát
nhưng rất đặc biệt, quyến rũ. Qua hải ngoại, thỉnh thoảng chúng tôi cũng mua hoặc
được tặng vài loại trà mắc tiền, nhưng hình ảnh và hương vị cái ấm trà nằm
trong cái đồ ủ nóng của ba tôi vẫn không phai nhòa trong kỷ niệm.
Tản mạn về trà mà không nói thơ văn thì thật là thiếu sót. Mời bạn
cùng tôi đọc lại các câu ca dao Việt Nam như:
"Thương nhau múc bát chè tươi
Làm tô mì Quảng anh xơi cho cùng"
.....
"Phải đâu chàng nói mà xiêu
Tại con cá bống tại niêu nước chè"
Hoặc câu: "Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ nồi cơm nguội, nhớ siêu nước chè"
.....
"Muốn ăn cơm trắng cá mè
Thì về làng Quỷnh hái chè với anh"
.....
"Đừng có chết mất thì thôi
Còn sống có lúc no xôi, chán chè"
....
"Bao giờ dưới núi làm nhà
Nước khe gối đá pha trà ngủ say".
Hoặc thơ của cụ Nguyễn Trãi:
"Thư nhàn hỏi lửa pha trà mới,
Thích thú tựa thông nhìn ráng sa
Chợt nghĩ về hưu vui thú ẩn,
Một cần câu trúc chuyện đời qua".
Nhà thơ Cao Bá Quát thì viết:
"Khi trà chuyên năm ba chén
Khi Kiều lẩy một đôi câu".
Nhà thơ Nguyễn Khuyến thì ca tụng:
"Khi hương sớm lúc trà trưa
Bàn lan điểm nước đường tơ họa đàm".
Rồi trong thơ Trần Tế Xương, ông đã than:
"Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà!"
Còn trong tác phẩm Thúy Kiều của cố thi hào Nguyễn Du, đã có các
câu liên hệ tới trà như:
"Mành Tương phất phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình".
"Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang"
và cụ Nguyễn Du đã than rằng:
"Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về
....
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành". Trà Mi là một loài hoa đẹp
và quý.
Cũng xin mở ngoặc ở đây cuốn tiểu thuyết Trà Hoa Nữ, tiếng Pháp là
La Dame aux camélias của Alexandre Dumas. Ông sinh năm 1824 và mất năm 1895.
Câu chuyện được viết khi ông mới 23 tuổi dựa trên mối tình của chính mình và cô
kỹ nữ Marie Duplessis. Cô kỹ nữ này dĩ nhiên xinh đẹp nhưng mắc phải bệnh lao phổi.
Cô có biệt danh Trà Hoa Nữ vì thường cầm theo đóa hoa trà đỏ với ngụ ý không sẵn
sàng để tiếp khách khi đang trong chu kỳ kinh nguyệt, trong những ngày sẵn sàng
hành nghề cô cầm trên tay hoa trà trắng.
Câu chuyện cuộc đời "Cô Ba Trà", được Xuân Vũ viết lại
là cuốn tiểu thuyết tôi cũng đã từng đọc say mê, thương cho mỹ nhân nức tiếng
Sài thành phải chịu nhiều gian truân từ bé. Cô từng được bao nhiêu người say
mê, trong có Hắc và Bạch công tử khét tiếng từng đốt tiền để luộc trứng, nhưng
cô Trà khổ ơi là khổ, chết sớm trong oan nghiệt, tăm tối.
"Trương Chi" là bài nhạc tiền chiến được Văn Cao sáng
tác năm 1942, được nhiều ca sĩ thể hiện, kể về câu chuyện anh chàng tài hoa
nhưng nghèo và xấu trai. Trương Chi yêu Mị Nương là một cô gái xinh đẹp con của
một vị quan đại thần, Mị Nương thất vọng não nề khi diện kiến người có tiếng
sáo ngọt ngào lại là chàng trai quá xấu xí. Trương Chi mang bệnh tương tư sầu
héo dần mà chết, hóa thành chén ngọc. Khi rót trà vào, Mị Nương thấy trong chén
trà hiện lên hình bóng Trương Chi và tiếng sáo năm xưa lại nỉ non như than như
trách. Nhớ lại mối tình đã qua, nước mắt của Mị Nương rơi xuống làm chén này
tan ra thành nước, hòa với nước sông Tương trở thành tình sử bất hủ.
Trong bản nhạc Trăng Sáng Vườn Chè, nhạc sĩ Văn Phụng phổ nhạc từ
thơ Nguyễn Bính đã có những câu hết sức thơ mộng "Sáng trăng sáng cả vườn
chè, Một gian nhà nhỏ đi về có nhau..... Đêm nay mới thật là đêm, Ai đem trăng
tưới lên trên vườn chè."
Hay trong bài "Cô Hàng Nước" của tác giả Vũ Minh:
"Anh còn, còn có mỗi, mỗi cây đàn. Anh đem, đem bán nốt. Anh theo, theo cô
hàng, hàng chè xanh..."
Trong nhạc phẩm "Một Chút Quà Cho Quê Hương", cố nhạc sĩ
Việt Dzũng đã "Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh, Mẹ pha hộ con nước mắt đã
khô cằn".
Trong nhạc phẩm "Mộng Ban Đầu" của Hoàng Trọng, cô gái
quê đã "Dâng bát nước chè xanh, chan chứa mộng yên lành"
Liên hệ tới trà thì nơi các ca sĩ, khán giả gặp nhau để nghe nhạc
thời đó được gọi là phòng trà. Phòng trà ngày nay đã biến thể, người ta không
đơn thuần uống trà nghe nhạc thính phòng mà lại uống bia rượu và có nhiều thứ
nhạc kích động khác.
Nhà hàng
Tàu nổi tiếng có Dimsum, tức là bữa ăn giữa sáng và trưa với các món như xíu mại,
há cảo, bánh nói chung là "dumpling", tiếng Việt phiên âm Dimsum ra
là nhẩm xà, tức là uống trà trong bữa ăn này để mong tiêu bớt chất béo.
Viêt Nam
mình có trái thanh trà, hay còn được gọi là chanh trà là loại cây mọc dại rất dễ
trồng, ưa nắng, cho trái nhỏ màu vàng, thơm.
Thôi, dông dài nãy giờ ly trà cũng đã cạn, để kết thúc bài tản mạn
này, tôi xin được chia sẻ mấy câu thơ mình làm khi buồn, khi một mình độc ẩm:
"Nhấp một chút trà thơm
tưởng vị ngọt vào hồn
ngờ đâu mùi đắng chát
để nhức nhối sầu tuôn"
Vâng, trước tình trạng bệnh dịch Covid hoành hành, kinh tế, chính
trị, tinh thần, giá trị nhân bản xuống thấp, biết làm gì hơn là đành một mình uống
ly trà đắng, than thân trách phận, nếu bạn cùng chung tâm trạng, xin mời cùng
tôi nhấp chén trà thơm, trang trải cùng một nỗi lòng, một tâm sự. Dù buồn,
nhưng dù sao cũng xin hãy nhắc nhở nhau hướng về cái Chân Thiện Mỹ, mong chờ một
tương lai tốt đẹp hơn, mà để có được cái xã hội tốt đẹp đó, chính mình phải
tích cực ra tay xây dựng, đóng góp.
Nguyễn Ngọc Duy
Hân
No comments:
Post a Comment