Thơ
Bạn có yêu thơ không? Bạn hiểu thơ là gì? Nhà thơ nổi tiếng Việt Nam Bùi
Giáng đã chia sẻ: “Con chim thì ta biết nó bay, thi sĩ thì ta biết nó làm
thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết!" Cũng theo Bùi
Giáng, “Thơ là một cái gì không thể bàn tới, không thể diễn gì được”.
Chèn ơi, đại thi sĩ mà nói như vậy thì ai mà dám lạm bàn về thơ.
Thế nhưng trong mùa đại dịch Vũ Hán Corona đầu tháng Tư, 2020 này, nhân
lúc rảnh rỗi xem lại hình ảnh "Đêm Thơ Nhạc Trịnh Tây Ninh & Đặng
Hoàng Sơn" xảy ra vào tháng 10, 2018, lòng tôi bỗng bồi hồi và muốn chia sẻ
một chút về đề tài "không thể bàn tới" này.
Đầu tiên xin nhắc lại lời cảm ơn chân thành tới mọi người đã ủng hộ buổi
thơ nhạc "Hát cho Yêu Thương" tại Toronto, Canada tháng
10 năm 2018. Hôm ấy vài đài truyền thông đã phỏng vấn anh Đặng Hoàng Sơn và
tôi. Tôi đã rất "sang chảnh" vì được coi là "nhà thơ" với
bút hiệu Trịnh Tây Ninh, có khoảng 80 bài thơ được phổ thành ca khúc. Thấy tôi
thuộc phái "Thích Đủ Thứ" - khi thì tập làm thơ, có khi dám viết
phiếm luận, truyện ngắn, vẽ vời, nên họ hỏi giữa nhà thơ và nhà văn, chị thích
cái nào hơn, tôi đã nói đùa tôi chỉ thích làm nhà giàu! Nói chơi mà cũng là nói
thật, vì làm nghệ sĩ nước Việt Nam nghèo lắm. Sách báo, đặc biệt thi phẩm rất
khó bán, khó kiếm được tiền. Mà cũng có lẽ cái nghèo cũng có thi vị, nên nhiều
thơ văn về cảnh nghèo, bài hát về tình nghèo đã được sáng tác và rất nổi tiếng.
Nhớ thời còn học Trung Học ở Việt Nam, bạn và tôi đã được dạy về thơ Đường
Luật Thất Ngôn Bát Cú: Nào là thơ của Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công
Trứ, bà Huyện Thanh Quan, trẻ trung hơn lúc đó có nhà thơ nữ Hồ Xuân Hương....
Mới đầu tôi không thích các bài thơ quy luật gắt gao rất khó làm này, sau này
già hơn mới biết quý. Đến bây giờ tôi vẫn còn thuộc lòng một ít bài, bạn còn
thuộc và đọc được bài nào không?
Đặc điểm của thơ văn thời đó là phải đối cho chỉnh. Ông Cao Bá Quát đã
thoát nạn khi ứng khẩu đối ngay câu: "Nước trong leo lẻo, cá đớp
cá" bằng câu: "Trời nắng chang chang, người trói người"
và đã được vua tha tội.
Bà Đoàn thị Điểm thì nổi tiếng với câu "Vỗ bụng kêu bì bạch",
câu này đến nay vẫn chưa có ai đối được thật chỉnh.
Thi hào Nguyễn Du với tác phẩm "Kiều" thì chắc người Việt ai
cũng phải biết tới. Kế tới phải kể tới tác giả của chuyện "Lục Vân
Tiên". Ông đồ Nguyễn Đình Chiều này không những làm thơ hay mà lại rất yêu
nước, chống Pháp thật kiên cường. Ông không thèm xài xà-bông hoặc đi trên con
đường tráng nhựa do thực dân Pháp làm. Quan Pháp rất quý trọng ông, nhưng ông đồ
luôn khẳng khái từ chối mọi bổng lộc. Được kể lại chỉ có một lần duy nhất quan
Pháp M. Ponchon hỏi ông Đồ Chiểu về một ước nguyện, lần này ông không "say
no" nữa mà đòi chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn những
người dân đã chết trận. Hôm đó, tại chợ Ba Tri, nghe ông Đồ Chiểu đọc bài văn tế,
người dân đã không cầm được nước mắt. Loại Hịch này cũng là một thể thơ rất đặc
biệt trong văn học Việt Nam.
"Màu Tím Hoa Sim" là một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Hữu
Loan, được sáng tác năm 1949 và sau đó đã được rất nhiều nhạc sĩ phổ thành ca
khúc.
Tôi cũng rất thích khẩu khí trong bài Hồ Trường của Nguyễn Bá Trạc:
“Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm
thân thế bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ - lại
đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?”
Một thi nhân nổi tiếng đã phải rao bán "Ai mua trăng tôi bán
trăng cho" vì ông bị bệnh phong cùi, rất nghèo. Đó là nhà thơ Hàn Mặc
Tử, thế nhưng ông có rất nhiều mối tình thi vị, sống một đời rất ý nghĩa.
Một nhà thơ cận đại đã từng nổi tiếng với thơ say là thi sĩ Vũ Hoàng
Chương. Ông viết rất nhiều, xuất bản 15 tập thơ và 3 kịch thơ. Ông bị Cộng Sản
bắt bỏ tù sau 1975, rồi bị bệnh nặng trong khám Chí Hòa, khi được trả về nhà chỉ
5 ngày thì ông mất vào tháng 9 năm 1976 tại Sàigòn. Ngay sau 1975, ông dàm làm
thơ châm biếm, chê trách chế độ Cộng Sản, thật là khí khái can đảm. Nhưng nếu
được chọn lựa, thì có lẽ thi nhân họ Vũ này chỉ muốn viết thơ tình, thơ say,
như vài bài tiêu biểu sau:
“Say không còn biết chi đời
Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ”
...
....
“Có ai say để quên sầu, lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn”...
Báo chí cũng đã tốn nhiều giấy mực viết về một thi sĩ đặc biệt với nhiều
giai thoại mà tới nay vẫn chưa xác quyết được, đó là nhà thơ TTKH. TTKH là nam
hay nữ, cuộc đời thật như thế nào, hoàn cảnh nào đưa tới những bài thơ ướt át
đã đi vào lòng người đó?:
“Đang lúc lòng tôi muốn tạm
yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa
tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc
chút duyên?”
Câu chuyện thơ văn buồn đi vào lịch sử hiện đại phải nói tới nhóm
"Nhân Văn Giai Phẩm", khởi xướng đầu năm 1955 và bị kết thúc vào
tháng 6 năm 1958. Một người trong nhóm là Lê Đạt đã viết bài thơ mang hàm ý chế
giễu Hồ Chí Minh đã già và vô dụng trong bài thơ miêu tả cái bình bằng vôi:
“Những kiếp người sống lâu
trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại”...
Một bài thơ tiêu biểu khác
của nhóm Nhân Văn Giai phẩm là bài thơ của Trần Dần, được sáng tác năm 1955:
“Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ.
....
Chúng đem súng mà ngăn
Đem dây mà trói!
Giữ thân người
không giữ được nhân tâm”
Cũng xin nhắc sơ một chút về các nhà thơ nổi tiếng gần đây, như là Xuân
Diệu, Xuân Quỳnh, Nguyễn Bính, Thế Lữ, Hoàng Cầm, Đoàn Văn Cừ, Hồ Dzếnh, Tản
Đà, Tế Hanh, Đinh Hùng, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Phùng Quán, Nguyên Sa, Phạm Thiên
Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Cung Trầm Tưởng .... Mới đây nhất là bài thơ của Cô giáo
Lam "Đất nước mình ngộ quá phải không anh" đã gây nên sóng
gió.
Đó là thơ ta, còn nói về thơ Tàu thơ Tây thì nhiều lắm. Thơ xưa bên Trung
Hoa thì phải kể tới Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Vương Bột ... họ viết hàng ngàn bài, chữ nghĩa tuôn ra
như thác, thật là tài tình.
Nói tới nhà thơ nổi tiếng ngoại quốc thì phải kể tới Molière (1622
–1673). Ông là nhà thơ, nhà viết kịch, nghệ sĩ người Pháp, người sáng tạo ra thể
loại kịch cổ điển, một bậc thầy của kịch nghệ châu Âu.
Như đã nói lúc đầu, nhà thơ, nghệ sĩ An Nam ta thường rất nghèo, các tác
phẩm ít khi được trả tác quyền cao, thì ngược lại bên nước ngoài cũng có mấy
trường hợp rất hy hữu. Chẳng hạn cuốn “First Folio” của William Shakespeare vào
năm 2001 đã bán đấu giá được tới hơn 8 triệu đô Mỹ. Năm xưa người ta xuất bản
chỉ 750 quyển, bản hoàn chỉnh của “First Folio” hiện chỉ còn lại khoảng 40 quyển.
Đây được xem là tập sách quan trọng nhất của văn học Anh. Ấy, nhưng nó là văn
chứ không phải là thơ, nhà thơ đừng mừng hụt! Hình như chưa có cuốn thơ nào bán
được nhiều tiền cả. Sẵn đây cũng xin mở ngoặc các tranh vẽ của Leonardo da
Vinci hay Pablo Picasso đã bán được hằng mấy trăm triệu một bức. Hay là bỏ làm
thơ đi vẽ tranh có cơ hội kiếm tiền cao hơn!?
Kế tới phải nhắc về Rabindranath Tagore, ông không chỉ là đại diện văn
hóa tiêu biểu của Ấn Độ, ông còn là nhà thơ châu Á đầu tiên được trao giải
Nobel Văn Học, đã để lại cho nhân loại nhiều tác phẩm giá trị, mang ý nghĩa tâm
linh. Các bài thơ của Tagore đã được giáo sư Đỗ Khánh Hoan dịch ra lời Việt.
Chúng tôi cũng có duyên may quen biết với vị dịch giả, thầy giáo với chữ nghĩa
mấy bồ này, nhưng hy vọng sẽ có dịp khác viết về ông sau.
Một nhà thơ nổi tiếng khác người Thụy Điển là Tomas Transtroemer, cũng đã
đoạt giải Nobel Văn Học năm 2011. Những bài thơ của ông được cho là huyền bí,
uyên bác và buồn, đã được dịch sang hơn 50 thứ tiếng.
Đoạt giải Nobel Văn Học năm 1996 là nữ thi sĩ người Ba Lan, mang tên
Wislawa Szymborska.
Pablo Neruda (1904-1973) là nhà thơ Chi-lê cũng đã được giải Nobel Văn Học
năm 1971. Ông cũng là một trong những nhân vật quan trọng trong chính quyền
Chi-lê, từng ra tranh cử tổng thống. Hay chưa, đâu phải thi sĩ chỉ là "than
với gió, khóc với mây", họ lãng mạn thật nhưng cũng có nhiều người rất
mạnh mẽ, sáng suốt và cũng thích chính trị chứ bộ!
Được giải thưởng về văn chương trên thế giới phải kể tới cuốn
"Ru" của Kim Thúy, người phụ nữ mới đây đã góp phần làm vẻ vang dân
Việt. Cô sống ở thành phố Montreal, Canada, có tên trong danh sách 4 nhà văn
vào vòng chung kết của giải Văn Chương mới, giải này được lập ra để thay thế giải
Nobel Văn Chương bị ngưng tổ chức mấy năm nay. Kim Thúy cho tới nay đã viết 3
tiểu thuyết Ru, Mãn và Vi. Thật đáng hãnh diện lây phải không các bạn.
Để tỏ lòng quan tâm và yêu thơ, thế giới đã có ngày "National
Poetry Day", năm nay vào 1 tháng 10, 2020, hoặc "World Poetry
Day" vào 21 tháng 3 để mừng thơ và các nhà thơ, nhấn mạnh thơ là nhu cầu
xã hội, khuyến khích con người, đặc biệt là thế hệ trẻ tìm về cội nguồn.
Nói chung người dân Việt Nam mình đã yêu thơ mến nhạc từ xưa, không cần học
cao có bằng cấp mà vẫn sáng tác những câu ca dao tục ngữ, những bài vè thật ý
nghĩa.
Tâm trạng người yêu chữ nghĩa thì chúng tôi có biết qua, sai một chữ cũng
không an tâm, phải sửa cho chỉnh thì mới vui được. Số là chúng tôi có giúp một
số hội đoàn, nhóm, nhà thờ làm các tờ đặc san, kỷ yếu, đa số tác giả đều sửa đi
sửa lại bài của mình nhiều lần. Hôm nay gởi bài với tên "cuối cùng –
final", ngay ngày mai đọc lại thấy chưa ổn nên đã có bản khác "final
final", xong thì gởi thư email tiếp xin sửa câu này, dòng số mấy trước khi
chúng tôi "layout" làm thành sách. Nhất là trong thể thơ "Xướng
- Họa", tức là một thi nhân bắt đầu xướng lên bằng một bài thơ với đề tài
nào đó, anh em trong thi đàn sẽ "phụng họa" trở lại. Thú thơ xướng họa
này rất tao nhã, khi có được tri kỷ đối đáp hay, chỉnh thì sung sướng còn hơn
được ăn cao lương mỹ vị. Với nhạc cũng thế, sai chút xíu là không chịu được,
như anh ca trưởng của ca đoàn nhà thờ tôi, khi chúng tôi hát sai chỉ nửa nốt nhạc
là anh đau khổ rồi, bắt sửa cho đúng nếu có thể. Ngày nay bận rộn, nhiều người
không thích đọc sách, nhất là không thích thơ, có thì đọc xếnh xáng lấy đại ý,
nhưng các tác giả thì vẫn quan tâm từng chữ một, nhất là nếu lỡ ai đó xài chữ mới,
tạm gọi là chữ "Việt Cộng", thì rất lấy làm khó chịu.
Trò chơi "Thả Thơ" trong các dịp hội chợ Tết cũng là một thú
vui thanh cao. Đại khái người quản trò cho ra một câu thơ nhưng che mất một chữ,
người tham dự phải đoán rồi đặt xem chữ đó là chữ gì, nếu đúng thì được thưởng,
với trò Thả Thơ này, mọi người có dịp ôn lại các câu thơ cũ rất vui.
Riêng tôi thì khi buồn mới làm thơ được, nhưng gần đây không viết được
bài thơ nào - không phải vì quá vui, mà vì đầu óc khô cạn, tâm tư không còn lai
láng, luôn bận rộn chuyện đẩu đâu. Sau này đất nước thanh bình không còn Cộng sản,
có lẽ tôi sẽ về Việt Nam sống cho qua tuổi già, biết đâu sẽ chọn tỉnh Cần Thơ để
vui thú điền viên. Tỉnh lỵ này có lẽ rất yêu thơ, cần thơ, cần thi sĩ, nên mới
có tên là Cần Thơ!! Tôi về chắc sẽ được "welcome" chào đón nhiệt liệt,
không bị ế ẩm như hiện nay.
Tâm sự của "Ông Đồ Già" Vũ Đình Liên chắc cũng là tâm trạng của
rất nhiều người:
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?....
”
Vâng, chữ nghĩa Thánh Hiền, thơ văn ngày nay đã qua một giai đoạn mới, nếu
không giữ vững lập trường, cố gắng bảo tồn gìn giữ, dạy dỗ con cháu thì sẽ rất
đáng tiếc. Nhân đây tôi xin trân trọng cảm ơn các trang mạng, đài phát thanh,
truyền hình trong công tác văn hóa này. Vài nhóm đã liên tục tổ chức thi viết,
thi hát, thi sáng tác... Mong quý vị luôn vững tay lái để con thuyền chữ nghĩa
Việt Nam luôn "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm" (thơ Nguyễn
Đình Chiểu).
Trở lại đêm thơ nhạc Trịnh Tây Ninh & Đặng Hoàng Sơn, xem lại hình ảnh,
video, tôi không khỏi bồi hồi. Hên quá hồi ấy không bị con vi trùng Vũ Hán
Covid 19 hành, nên đã tụ họp, tổ chức được. Gần đây biết bao đám cưới, họp mặt,
tiệc gây quỹ, ngay cả lễ Chào Cờ dịp Quốc Hận 30 tháng Tư cũng không được tiến
hành.
Cầu xin cơn dịch này chóng qua, mọi sinh hoạt trở nên bình thường và văn
chương, chữ nghĩa Việt Nam luôn được trong sáng, ý nghĩa, phát triển theo chiều
hướng tốt.
Nguyễn Ngọc Duy Hân
No comments:
Post a Comment